Vào bất kỳ buổi sáng nào ở Hà Nội, rất đông người dân thành phố hướng đến địa điểm yêu thích của họ để bắt đầu một ngày. Một số người mang bia của họ đi trong khi những người khác thưởng thức nó trên vỉa hè trước khi đi vào văn phòng. Với bản chất toàn diện của các quán cà phê và xe cà phê, người ta có thể được tha thứ vì nghĩ rằng Việt Nam sẽ không bao giờ hết cà phê. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy biến đổi khí hậu là mối đe dọa cấp tính đối với đất nước sản xuất cà phê.
Đại đa số các loại cà phê tại Việt Nam, cho dù chúng được phục vụ bên đường hay trong một quán cà phê máy lạnh, đều thuộc giống Robusta. Robusta là một trong hai loài cà phê chính, còn lại là Arabica. Loại thứ hai được sử dụng để tạo ra cà phê cho người sành ăn trong khi Robusta có chất lượng thấp hơn, phù hợp với cà phê hòa tan và pha cà phê buổi sáng của bạn tại Highlands.
Trong khi những người uống cà phê trung bình có thể nghĩ rằng mặt hàng này có lịch sử lâu đời ở đây, thì Việt Nam chỉ trở thành một cường quốc cà phê trong thời gian gần đây. Theo Conservation International, năm 1990, Việt Nam chỉ chiếm 3% sản lượng cà phê toàn cầu. Ngày nay, con số đó là 17% và quốc gia này là nhà sản xuất Robusta lớn nhất thế giới trước Brazil và Indonesia.
Sản phẩm này, phần lớn tập trung ở Tây Nguyên, đã tạo ra lợi ích kinh tees cho một số lượng lớn người dân. Theo văn phòng Trung tâm Quốc tế về Nông nghiệp Nhiệt đới (CIAT) Châu Á tại Hà Nội, 550.000 nông hộ sản xuất nhỏ cung cấp hơn 95% cà phê Việt Nam, 500.000 người khác đang tham gia vào công việc thời vụ trong ngành.
Mối đe dọa khí hậu
Đáng lo ngại, tuy nhiên, cây cà phê Việt Nam đang gặp nguy hiểm. Nghiên cứu của CIAT cho thấy, với các mô hình tăng nhiệt độ toàn cầu dự đoán hiện nay, 50% diện tích đất trồng cà phê hiện tại có thể trở nên không phù hợp để sản xuất vào năm 2050.
Tiến sĩ Peter Laderach, chuyên gia biến đổi khí hậu cao cấp tại CIAT Châu Á, giải thích tầm quan trọng của việc phân biệt biến đổi khí hậu với các biến động hàng năm, chẳng hạn như hạn hán năm nay ở Tây Nguyên, đã gây thiệt hại cho sản xuất.
Thay đổi khí hậu là tiến bộ, ông nói. Một số khu vực sẽ chỉ trở nên không phù hợp trong 20 hoặc 30 năm, nhưng ở những khu vực khác, bạn có thể thấy rằng chúng đang trở nên không phù hợp.
Thời tiết khắc nghiệt như hạn hán cũng sẽ trở nên phổ biến hơn khi nhiệt độ tăng cao tàn phá các hệ thống thời tiết truyền thống.
Mùa khô được dự đoán sẽ kéo dài hơn, vì vậy những phép thuật khô đó đang ngày càng trở nên bình thường, ông nói. Các kiểu khí hậu như El Niño sẽ trở nên thường xuyên hơn.
Trên thực tế, dữ liệu CIAT cho thấy đến năm 2050, thời kỳ hạn hán ở miền Nam Việt Nam có thể kéo dài đến tháng 6, dài hơn gần ba tháng so với bình thường. Trong khi đó, lượng mưa ở vùng cao trong những tháng mùa khô này có thể giảm tới 20 mm, gây ra vấn đề lớn cho một phần của đất nước nơi 90% lượng nước sử dụng có liên quan đến sản xuất cà phê.
Trần Ban Hưng, Fairtrade Châu Á và Thái Bình Dương liên kết với Việt Nam, giải thích rằng sự thay đổi mô hình như vậy sẽ gây ra thiệt hại lớn cho nông nghiệp.
Khi mưa rơi vào thời điểm đó với sự ra hoa của cà phê, nó làm giảm năng suất và chất lượng của cà phê. Đã có một số giảm về khối lượng, vì vậy thay vì năm tấn mỗi ha, một nông dân chỉ có thể có 3,5 tấn.
Khí hậu trở nên khô khan cũng khiến nông dân khó kiểm soát sâu bệnh hơn, trong khi lượng mưa không ổn định buộc các nhà sản xuất phải đào thêm giếng để tìm nước cho nhà máy của họ. Điều này càng làm cạn kiệt đất đã được bón phân mạnh trong 30 năm qua để tăng năng suất.
Kết quả cuối cùng của những yếu tố này là bản đồ sản xuất cà phê Việt Nam sẽ được viết lại phần lớn trong những năm tới. Cà phê trong Thế kỷ 21, một báo cáo do Conservation International công bố vào tháng 4, cho thấy đến năm 2050, tổng diện tích phù hợp cho sự tăng trưởng của Robusta tại Việt Nam sẽ giảm từ 84.326 km2 xuống còn 46.473 km2. Riêng tỉnh Đăk Lăk có thể mất tới 50% diện tích cà phê phù hợp hiện tại và khu vực này chiếm khoảng 30% xuất khẩu cà phê Việt Nam.
|
Biểu đồ của CIAT - Phương án khả thi |
Trong khi những con số như vậy nghe có vẻ khủng khiếp, người tiêu dùng không cần phải chấp nhận một tương lai không “nâu đá” trong tương lai. Theo cả Laderach và Hung, nhiều việc có thể được thực hiện để giúp các cây cà phê Việt Nam thích nghi với nhiệt độ tăng và lượng mưa khó lường.
Hùng giải thích rằng việc cung cấp bóng mát cho hạt cà phê là rất quan trọng và Fairtrade Asia đang nỗ lực để giáo dục nông dân về cách làm này.
Nông dân đã từng chỉ trồng cà phê vì nó sẽ mang lại nhiều thu nhập, nhưng qua đào tạo, họ thấy rằng việc trồng cây tán sẽ giúp họ cải thiện chất lượng sản phẩm, ông nói.
Cây tán không chỉ cung cấp cứu trợ cho cây cà phê từ mặt trời Tây Nguyên phồng rộp; họ cũng có thể mang lại thêm tiền cho người trồng trọt.
Một số nông dân bắt đầu với những tán cây như sầu riêng, vì vậy thay vì có một thu nhập chính từ cà phê, họ nhận được nhiều hơn từ các tán cây, và nhiều người bắt đầu làm điều
Laderach thảo luận về tầm quan trọng của việc tạo lớp phủ mặt đất trên các đồn điền cà phê. Nếu mặt đất trơ trọi, nước sẽ không giữ được, nhưng nếu mặt đất được che phủ có thể giúp giữ ẩm cho đất. “Đất gần như đã chết vì họ đã sử dụng quá nhiều phân bón”.
May mắn thay, các bên liên quan trong ngành nhận ra sức nặng của những thách thức mà các nhà máy cà phê Việt Nam Robusta phải đối mặt.
Năm nay là một hồi chuông cảnh tỉnh, cổ phiếu của Lad Ladachach. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp triệu tập các nhà tài trợ, và khí hậu đang thực sự đẩy nó lên trên đỉnh và khiến mọi người nhận ra rằng những điều kiện này có thể xảy ra thường xuyên hơn. Nó rất cao trong chương trình nghị sự kể từ khi nó kiếm được một khoản thu nhập GDP khổng lồ.
John Connor, Giám đốc điều hành của Viện Khí hậu, cho biết khu vực tư nhân cũng đang tham gia. Một số công ty lớn đang đầu tư vào các chiến lược nâng cao năng lực và thích ứng, tài trợ cho các chương trình hỗ trợ của các chủ hộ nhỏ, anh ấy chia sẻ trong một email.
Hơn nữa, một số công ty hàng đầu đã hợp tác với các tổ chức phi chính phủ phát triển để thiết lập một sáng kiến toàn cầu nhằm cung cấp cho nông dân đào tạo và các công cụ để ứng phó với các tác động của biến đổi khí hậu.
Người tiêu dùng cũng có thể đóng một vai trò trong việc làm giảm nguy cơ biến đổi khí hậu. Là người uống cà phê, chúng ta nên giáo dục bản thân về những vấn đề này và đảm bảo rằng chúng ta chọn những thương hiệu được sản xuất có đạo đức về mặt biến đổi khí hậu, theo ông Conn Connor giải thích. Fairtrade, ví dụ, có một hệ thống chứng nhận cho phép người mua hàng xác định các thương hiệu sản xuất cà phê theo cách thân thiện với môi trường. Đáng buồn thay, người phụ nữ trung niên bán cà phê ở cuối hẻm của bạn có thể không đáp ứng các tiêu chuẩn này.
Chắc chắn, tương lai của sản xuất cà phê Robusta tại Việt Nam là không chắc chắn. Về phần mình, tuy nhiên, Laderach lạc quan rằng đất nước sẽ tìm thấy con đường đúng đắn. Trước đây, tôi đã làm việc ở Colombia, nơi họ đã trồng cà phê trong một thế kỷ và ở đây, nó chỉ mới 30 năm nhưng họ đã xây dựng một hệ thống sản xuất khổng lồ, anh nói. Tôi cho rằng nếu mọi người cần phải tạo ra một hệ thống mới bền vững hơn, nghiêm túc thì có thể thực hiện được. Có một tiềm năng rất lớn để làm cho đúng.
Viết bởi Michael Tatarski.
AGROINFO dịch