Theo Dân Việt
Trong báo cáo tháng 11/2022, Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) dự báo thương mại gạo toàn cầu trong năm 2023 (tháng 1 đến tháng 12) dự báo giảm 0,4 triệu tấn xuống còn 53,0 triệu tấn, giảm gần 4% so với mức kỷ lục của năm trước và là lần giảm đầu tiên kể từ năm 2019.
Trong đó, xuất khẩu của Pakistan dự báo giảm 0,7 triệu tấn, của Mỹ giảm 0,15 triệu tấn và xuất khẩu của Campuchia giảm 0,1 triệu tấn, không được bù đắp hoàn toàn dù xuất khẩu của Argentina và Ấn Độ gia tăng.
Về nhập khẩu trong năm 2023, dự báo nhập khẩu của Ghana, Haiti, Hàn Quốc, Mali, Mozambique và Thái Lan (so với báo cáo tháng 10) giảm không được bù đắp hoàn toàn bởi nhập khẩu tăng của Angola, Australia, Morocco, Sri Lanka, Thổ Nhĩ Kỳ và Mỹ. Mức tăng 0,15 triệu tấn trong dự báo nhập khẩu năm 2023 của Sri Lanka là sự điều chỉnh lớn nhất trong tháng này về nhập khẩu. Nhập khẩu của Mỹ và EU được dự đoán cao kỷ lục.
So với năm trước, xuất khẩu của Argentina, Brazil, Campuchia, Trung Quốc, Liên minh Châu Âu, Ấn Độ, Lào, Malaysia, Pakistan, Nga, Senegal, Tanzania, Thổ Nhĩ Kỳ, Mỹ và Uruguay đều dự kiến giảm trong năm 2023. Xuất khẩu của Ấn Độ dự kiến sẽ giảm 1,50 triệu tấn và của Pakistan giảm 0,80 triệu tấn, chủ yếu do sản lượng giảm. Ngược lại, Australia, Myanmar, Guyana, Paraguay, Thái Lan và Việt Nam dự kiến sẽ tăng xuất khẩu gạo trong năm 2023. Xuất khẩu của Thái Lan dự kiến sẽ tăng 0,6 triệu tấn lên 8,2 triệu tấn, Việt Nam lên kỷ lục hơn 7 triệu tấn, chủ yếu do sự cạnh tranh từ các đối thủ là Ấn Độ và Pakistan giảm bớt.
Về nhập khẩu gạo trên toàn cầu năm 2023 so với 2022, USDA dự báo Angola, Australia, Bangladesh, Benin, Campuchia, Trung Quốc, Costa Rica, Ai Cập, Iraq, Madagascar, Mali, Nigeria, Philippines, Senegal, Sri Lanka, Thổ Nhĩ Kỳ và Việt Nam sẽ giảm nhập khẩu gạo trong năm 2023 so với năm 2022. Một phần bù đắp cho sự sụt giảm đó là Afghanistan, Cameroon, Canada, Cuba, Ecuador, Liên minh châu Âu, Ghana, Haiti, Kuwait, Mexico, Mozambique, Nepal, Niger, Nga, Nam Phi, Tanzania, Thái Lan, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Mỹ, Venezuela và Yemen dự báo sẽ tăng nhập khẩu gạo trong năm 2023.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, dự kiến năm 2022, xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt 7 triệu tấn, trị giá gần 4 tỷ USD. Đây là kết quả ấn tượng trong bối cảnh thị trường thế giới có nhiều biến động và gạo tiếp tục là mặt hàng xuất khẩu tỷ USD của nông sản Việt Nam.
Xuất khẩu gạo cuối năm 2022 và đầu năm 2023 có thể tiếp tục tăng trưởng do: Thời tiết khắc nghiệt ở nhiều quốc gia châu Á, nơi chiếm 90% sản lượng gạo toàn cầu. Tình trạng biến đổi khí hậu, hạn hán gay gắt ở Mỹ, châu Âu và Trung Quốc - nước có nhu cầu tiêu thụ gạo lớn nhất thế giới, đang đặt nguồn cung gạo vào tình trạng thiếu hụt. Ấn Độ vẫn kiểm soát xuất khẩu gạo cùng tình hình khan hiếm lương thực trên thế giới.
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, trong tháng 11 Việt Nam xuất khẩu hơn 587.800 tấn gạo, thu về gần 290 triệu USD, giảm 17,6% về lượng và giảm 15% kim ngạch so với tháng trước. Giá trung bình 493 USD/tấn, tăng nhẹ 3,2%.
Tính chung cả 11 tháng năm 2022 lượng gạo xuất khẩu của cả nước đạt gần 6,7 triệu tấn, tương đương trên 3,2 tỷ USD, tăng 16% về khối lượng, tăng 6,7% về kim ngạch so với 11 tháng năm 2021, giá trung bình đạt gần 485 USD/tấn, giảm hơn 8%.
Trong 11 tháng qua có thời điểm giá xuất khẩu gạo 5% tấm của Việt Nam đã vượt qua Thái Lan và đứng đầu thế giới.
Cụ thể, theo số liệu của Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA), trong tháng 11/2022, trong khi giá chào bán gạo 5% tấm của Thái Lan chỉ ở mức 442 USD/tấn còn Việt Nam ghi nhận mức 447 USD/tấn. Với mức này, giá gạo Việt Nam nhỉnh hơn gạo Thái Lan cùng loại khoảng 5 USD/tấn.
Giá bình quân tháng 11 gạo 5% tấm Việt Nam là 437 USD/tấn, cao hơn Thái Lan 15 USD/tấn khi gạo cùng loại của nước này ở mức 422 USD/tấn.
Trong kỳ, Philippines vẫn đứng đầu về tiêu thụ gạo của Việt Nam, chiếm gần 45% trong tổng lượng và gần 43% trong tổng kim ngạch gạo xuất khẩu của cả nước, đạt gần 3 triệu tấn, tương đương 1,4 tỷ USD, tăng 30% về lượng và tăng 18% về kim ngạch. Giá trung bình 463 USD/tấn, giảm 9,3% về giá so với 11 tháng đầu năm 2021.
Tiếp sau đó là thị trường Trung Quốc chiếm trên 12% trong tổng lượng và tổng kim ngạch, đạt gần 808.000 tấn, tương đương 408,5 triệu USD, giá trung bình 505,6 USD/tấn, giảm 19,2% về lượng và giảm 17,4% kim ngạch; giá tăng nhẹ 2,2% so với cùng kỳ năm 2021.
Giá lúa gạo hôm nay 27/12 tại Đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục xu hướng đi ngang. Hiện nhiều doanh nghiệp xuất khẩu đã có đơn hàng trong quý I/2023.
Hiện lúa OM 18 đang được thương lái thu mua tại ruộng với mức 6.800 – 6.900 đồng/kg; OM 5451 6.700 – 6.800 đồng/kg; Đài thơm 8 6.900 – 7.100 đồng/kg; nàng hoa 9 6.900 – 7.200 đồng/kg; nếp khô Long An 9.000 – 9.200 đồng/kg, nếp khô An Giang giá dao động 8.400 – 8.600 đồng/kg; lúa Nhật 7.800 – 7.900 đồng/kg; lúa IR 504 ở mức 6.200 – 6.300 đồng/kg; nàng hoa 9 6.600 – 6.800 đồng/kg; lúa IR 504 khô duy trì ở mức 6.500 đồng/kg; nếp tươi An Giang đang được thương lái thu mua ở mức 7.000 – 7.200 đồng/kg; nếp Long An tươi 7.850 – 8.000 đồng/kg;
Với mặt hàng gạo, giá gạo nguyên liệu, thành phẩm duy trì ổn định. Hiện giá gạo nguyên liệu ở mức 9.200 – 9.300 đồng/kg; gạo thành phẩm 10.000 – 10.100 đồng/kg. Tương tự, với mặt hàng phụ phẩm, giá phụ phẩm cũng có xu hướng đi ngang. Hiện giá tấm ở mức 9.300 đồng/kg; cám khô ở mức 8.100 – 8.200 đồng/kg.
Tại chợ lẻ, giá gạo thường 11.500 đồng/kg – 12.500 đồng/kg; gạo thơm Jasmine 15.000 – 16.000 đồng/kg; gạo Sóc thường 14.000 đồng/kg; nếp ruột 14.000 – 15.000 đồng/kg; Gạo Nàng Nhen 20.000 đồng/kg; Gạo thơm thái hạt dài 18.000 – 19.000 đồng/kg; Gạo Hương Lài 19.000 đồng/kg; Gạo trắng thông dụng 14.000 đồng/kg; Nàng Hoa 17.500 đồng/kg; Sóc Thái 18.000 đồng/kg; Gạo thơm Đài Loan 20.000 đồng/kg; Gạo Nhật 20.000 đồng/kg; Cám 7.000 – 8.000 đồng/kg.
Theo các thương lái hôm nay lúa Thu Đông về ít, lượng giảm so với tuần trước, giá neo cao. Thị trường giao dịch sôi động. Lúa Đông Xuân sớm đang được chào bán tại Cần Thơ, An Giang, giá cao giao dịch chốt mua ít.
Trên thị trường xuất khẩu giá gạo Việt Nam giảm 5 USD/tấn với gạo 5% tấm. Cụ thể, theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, giá chào bán gạo xuất khẩu 5% tấm đang ở mức 453 USD/tấn, gạo 25% tấm duy trì ở mức 438 USD/tấn.
Hiện tại, nhiều doanh nghiệp trong ngành đã nhận được đơn hàng xuất khẩu đáng kể cho năm tới. Chẳng hạn, Công ty cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An đã ký kết và sẽ giao 30.000 tấn gạo trong quý I/2023. Tập đoàn Lộc Trời cũng kín đơn hàng đi Pháp và nhiều thị trường truyền thống khác.
Nỗi lo của doanh nghiệp ngành gạo lúc này là khả năng tiếp cận nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng để đảm bảo tài chính phục vụ sản xuất, tích trữ nguyên liệu, thanh toán tiền hàng cho nông dân… Nếu giải tỏa được khó khăn về vốn, doanh nghiệp sẽ có thêm điều kiện thu mua thóc lúa dự trữ, chuẩn bị tốt cho hoạt động xuất khẩu gạo trong năm 2023.