Nguồn nongnghiep.vn
Báo cáo "Nghiên cứu ngành hàng lúa gạo Việt Nam 2022-2031" do tổ chức ResearchAndMarkets vừa thực hiện cho biết, có ba lý do chính đưa hoạt động xuất khẩu gạo Việt Nam phát triển ổn định.
Thứ nhất là chính phủ Việt Nam đã ban hành chính sách tái cơ cấu nông nghiệp, theo đó cơ cấu ngành lúa gạo được điều chỉnh mạnh mẽ như thay đổi quy trình canh tác, chú trọng nâng cao chất lượng gạo hơn là tăng sản lượng.
Cụ thể vào năm 2015, tỷ lệ hạt giống lúa chất lượng cao của Việt Nam chỉ chiếm 35% -40% cơ cấu sản xuất nhưng đến năm 2020, con số này đã đạt từ 75% -80%, thậm chí có nơi tỷ lệ sử dụng hạt giống chất lượng cao lên tới 90%.
Thứ hai, Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định thương mại song phương (FTA) như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại Tự do EU - Việt Nam (EVFTA) với nhiều nước, tạo điều kiện cho sự bứt phá của xuất khẩu gạo Việt Nam.
Thứ ba là nhu cầu thị trường, trong bối cảnh nhiều ngành vẫn bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 vào năm 2020, nhưng nhu cầu về lương thực, thực phẩm vẫn không hề sụt giảm.
Theo phân tích của các chuyên gia, đồng bằng sông Cửu Long là trung tâm trồng lúa của Việt Nam, khu vực đóng góp 50% sản lượng lúa gạo và 95% lượng gạo xuất khẩu cho nền nông nghiệp Việt Nam. Vào năm 2020, nông dân đồng bằng sông Cửu Long trồng hơn 1,5 triệu ha lúa mỗi mùa, với năng suất bình quân 6 tấn/ha và sản lượng lúa hàng năm trên 24 triệu tấn. Ngoài ra, sản lượng lúa đông xuân tại đây ước đạt khoảng 10 triệu tấn từ năm 2020 đến năm 2021.
Số liệu thống kê cho biết, năm 2021 Việt Nam đạt tổng sản lượng lúa khoảng 44 triệu tấn, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, chế biến, làm thức ăn gia súc, gia cầm và xuất khẩu đạt giá trị 3,133 tỷ USD. Gạo đã trở thành điểm sáng trong xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong bối cảnh xuất khẩu của nhiều mặt hàng chiếm ưu thế lâu nay của Việt Nam giảm mạnh.
Về giá, mặc dù giá gạo xuất khẩu bình quân của Việt Nam năm 2021 giảm 3,83% so với cùng kỳ năm trước, xuống còn 477 USD/tấn, nhưng sang đầu năm 2022, giá gạo Việt Nam vẫn giữ vị trí cao nhất. Tính đến ngày 25 tháng 3, giá gạo Việt Nam loại 5% tấm trung bình đạt 515-520 USD/tấn, trong khi gạo Thái Lan cùng loại ở mức 500 -518 USD/tấn và gạo Ấn Độ là 398- 403 USD/tấn.
Kể từ khi Hiệp định Thương mại Tự do EU-Việt Nam (EVFTA) có hiệu lực vào ngày 1 tháng 8 năm 2020, hoạt động xuất khẩu gạo đã tăng trưởng nhanh chóng. Theo bản hiệp định này, hàng năm EU sẽ cấp hạn ngạch cho Việt Nam 80.000 tấn gạo xuất khẩu với thuế suất 0% (bao gồm 30.000 tấn gạo đã chế biến, 20.000 tấn gạo chưa xát và 30.000 tấn gạo thơm).
Theo lộ trình, EU sẽ giảm thuế suất nhập khẩu về 0 trong những năm tới. Tận dụng lợi thế trên, ngay từ tháng 9/2020, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu gạo sang EU với giá cao hơn nhiều so với trước đây. Cụ thể, trước khi EVFTA có hiệu lực, giá gạo ST20 và gạo Jasmine xuất sang EU lần lượt chỉ là 800 USD và 550 USD/tấn, trong khi hiện nay giá lần lượt là trên 1.000 USD và 600 USD/tấn.
Trong diễn biến liên quan, mới đây ông Akio Shibata, Chủ tịch Viện Nghiên cứu Tài nguyên Thiên nhiên Nhật Bản cảnh báo rằng, châu Á không thể tiếp tục lạc quan về nguồn cung lương thực thiết yếu của mình. “Nếu giá phân bón tiếp tục tăng và nguồn cung bị gián đoạn, giá gạo có thể sẽ đi theo ‘vết xe đổ’ của giá lúa mì và ngô”, ông Shibata nói với tờ Nikkei Asia.
Theo vị chuyên gia người Nhật Bản, Thái Lan sẽ có thể đặc biệt dễ bị tổn thương do nông dân nước này thường dựa vào thuốc trừ sâu và phân bón hóa học đắt tiền khi mỗi năm quốc gia Đông Nam Á phải nhập khẩu khoảng 4 triệu tấn phân bón. Trong khi đó, năng suất lúa của Thái Lan vẫn ở mức thấp, mỗi rai (0,16 ha) đứng ở mức 454 kg, thấp hơn nhiều so với mức 803 kg/rai của Việt Nam. “Đó là điều khác biệt so với các đối thủ như Việt Nam và Ấn Độ. Việt Nam đã dành nhiều năm để phát triển bộ giống lúa mới và kỹ thuật trồng lúa cải thiện giúp cắt giảm chi phí sản xuất, trong khi Ấn Độ và Pakistan trồng lúa ở những vùng rộng lớn và giá nhân công rẻ”, theo ông Shibata.