Bộ Thương Mại Brazil đã điều chỉnh lại số liệu xuất khẩu cà phê tháng 4, trong đó chỉ ra thực thế sản lượng tăng 20.136 bao, cao hơn 0.4% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt mức 1.949.025 bao. Tuy nhiên, số lượng này vẫn được coi là khá khiêm tốn và trong một vài tháng tới, xuất khẩu vẫn sẽ không có nhiều thay đổi cho đến khi mùa thu hoạch bắt đầu. Từ tháng 8 trở đi, lượng cà phê sẽ trở nên dồi dào hơn.
Dữ liệu thương mại của chính phủ Indonesia cho thấy Sumatra, quần đảo sản xuất cà phê chính của nước này xuất khẩu 124.747 bao cà phê, thấp hơn 65,11% hay 66.850 bao so với cùng kỳ năm trước. Cùng với số lượng xuất khẩu khiêm tốn từ các tháng trước, tổng lượng xuất khẩu 7 tháng đầu niên vụ 10.2018 – 09.2018 đạt 1.735.206 bao, thấp hơn 68.18% hay 809.903 bao so với năm ngoái.
Dù sao vụ thu hoạch cà phê robusta tại Sumatra hiện tại đang chuẩn bị bắt đầu vào tầm cuối tháng và nhờ đó sẽ thúc đẩy được sản lượng xuất khẩu từ giờ đến cuối năm. Tuy nhiên, hiện có rất nhiều dự đoán khác nhau về quy mô của vụ mùa cà phê tại đây trong năm nay, ban đầu có thể là đáp ứng được nhu cầ rang xay nội địa đang rất cần kíp, thứ đến là bán ra thị trường tiêu dùng ở bất kỳ khối lượng nào. Cà phê robusta của Indonesia sẽ chỉ có giá cạnh tranh ở thị trường tiêu dùng từ quý III năm nay.
Viên nghiên cứu Cà phê quốc gia Costa Rica báo cáo lượng xuất khẩu cà phê tháng 4 của nước này đạt 175.212 bao, cao hơn 20,3%, tương đương 29.500 bao so với cùng kỳ năm ngoái. Bản báo cáo cho biết, tổng lượng xuất khẩu 7 tháng đầu năm của niên vự 10.2017- 09.2018 đạt tổng 631.935 bao, cao hơn 8%, tương đương 45.500 bao so với năm trước.
Chênh lệch hợp đồng tháng 7/2018 giữa thị trường London và New York đã thu hẹp vào hôm qua, ở mức 41,79 usc /lb, tương đương với mức giá giảm 33,77 % đối với thị trường cà phê Robusta ở London.
Dự trữ cà phê Arabica có chứng chỉ tại sàn giao dịch New York đã tăng 3.705 bao, lên 1.995.817 bao. Trong khi đó, số lượng cà phê đang chờ lên sàn giảm 3.742 bao, xuống còn 28.614 bao.
Thị trường hàng hóa hôm qua có nhiều biến động, kéo theo chỉ số hàng hóa vĩ mô tổng thể cũng giảm nhẹ. Thị trường dầu của Hoa Kỳ, đường, bông, đồng, nước cam, lúa mỳ và bạc kết thúc ngày giao dịch tăng điểm trong khi thị trường Dầu Brent, khí gas tự nhiên, cacao, cà phê, ngô, đậu ngành và vàng mất điểm. Chỉ số Reuters Equal Weight Continuous Commodity Index cho 17 ngành hàng giảm 0.03%, xuống còn 434.14. Đồng Dollar Mỹ có xu hướng tăng nhẹ, giao dịch ở mức 1,359 $/£, 1,199 $/€ và 3,551 Real Brazil/$ trong khi dầu biển Bắc ổn định ở mức 73.75 USD/ thùng.
Giá kỳ hạn cà phê như sau:
LONDON ROBUSTA US$/MT NEW YORK ARABICA USc/Lb.
MAY 1807 + 28 MAY 121.60 – 1.00
JUL 1807 – 8 JUL 123.75 – 1.05
SEP 1789 – 8 SEP 126.05 – 0.95
NOV 1788 – 7 DEC 129.50 – 0.95
JAN 1789 – 6 MAR 132.95 – 0.95
MAR 1796 – 7 MAY 135.25 – 0.90
MAY 1798 – 10 JUL 137.30 – 1.00
JUL 1810 – 11 SEP 139.15 – 1.05
SEP 1822 – 11 DEC 141.80 – 1.10
NOV 1837 – 11 MAR 144.45 – 1.10
Nguồn: https://scasa.co.za/blogs/market-reports/coffee-market-report-405
Agroinfo